background img

Tin tức mới

Showing posts with label Lao động. Show all posts
Showing posts with label Lao động. Show all posts
Theo thông báo từ cơ quan chức năng cho biết , Sở lao động - Thương binh và tầng lớp đã nhận được 556/600 bộ hồ sơ , lý lịch tư pháp của lao động Trung Quốc không phép tại Nhà máy đạm Cà Mau xin cấp phép lao động theo quy định. Có 44 bộ hồ sơ cho những lao dong còn lại được nhà thầu Trung Quốc hứa sẽ nộp vào chiều ngày 29-8 , nhưng đến nay ( 31-8 ) , vẫn chưa hoàn tất. Nguyên nhân của sự trì diên này được nhà thầu Trung Quốc lý giải là do giấy tờ can hệ chưa kịp dịch sang tiếng Việt.Lê Khoa
.

Chưa hoàn thành thủ tục theo quy định

Theo thông báo từ cơ quan chức năng cho biết , Sở lao động - Thương binh và tầng lớp đã nhận được 556/600 bộ hồ sơ , lý lịch tư pháp của lao động Trung Quốc không phép tại Nhà máy đạm Cà Mau xin cấp phép lao động theo quy định. Có 44 bộ hồ sơ cho những lao dong còn lại được nhà thầu Trung Quốc hứa sẽ nộp vào chiều ngày 29-8 , nhưng đến nay ( 31-8 ) , vẫn chưa hoàn tất. Nguyên nhân của sự trì diên này được nhà thầu Trung Quốc lý giải là do giấy tờ can hệ chưa kịp dịch sang tiếng Việt.Lê Khoa
.

Nhưng vì sao , hoạt động xuất biên lao động ( XKLĐ ) vẫn chưa tạo niềm tin cho người lao động trong nước , còn lao dong Việt Nam tại ngoại quốc vẫn chưa có “thương hiệu”?Người mong việc , doanh nghiệp nhăm nhăm kiếm chácChỉ riêng ba năm ( từ năm 2006 đến hết năm 2008 ) , đã có khoảng 250.000 lao động Việt Nam đi làm việc ở ngoại quốc ( đổ đồng khoảng 83.000 người/năm ). Làng nhàng một doanh nghiệp ( DN ) đưa được 600 - 1.000 lao dong đi làm việc ở ngoại quốc , thậm chí một số DN còn đưa được 2.000 người. Phong trào XKLĐ đến từng ngõ , gõ cửa từng nhà. Địa ngục lao dong ( NLĐ ) thì được “xuất ngoại” , ôm mộng nhận lương ngoại tệ , còn DN “rủng rỉnh” các loại phí…Hiện tại , hoạt động XKLĐ đang “phủ sóng” mạnh mẽ. Đến nay , trên cả nước , cỗ lao động – Thương binh và từng lớp ( LĐ-TB&XH ) đã cấp phép cho 171 DN hoạt động trong khu vực XKLĐ. Theo quy định , mỗi DN lại được phép thành lập ba chi nhánh , dưới các chi nhánh lại là các trọng tâm đào tạo nên số lượng chức vụ làm XKLĐ thực tế phải tới hơn 500 đơn vị... Không khó gì giảng giải hiện tượng cách đây tròn một năm , 32 lao động nữ quê ở Thái Nguyên phải sống cảnh vạ vật ở Hà Nội , bám trụ ở các cơ quan công năng để đòi “công bằng” cho mình. Họ được một công ti , trực thuộc tập đoàn lớn ( có giấy phép XKLĐ do Bộ LĐ-TB&XH cấp ) đến địa phương thông tin tuyển sang Nga làm mướn nhân may công nghiệp với phí ngót 41 triệu đồng. Đặt chân đến nước bạn , cạc lao dong nữ tá hỏa khi biết mình phải làm việc tại một xưởng may chui. Họ phải dùng nước không vệ sinh , cứ sau 12 tiếng làm việc mới được ăn , thậm chí khi không có việc thì bị bỏ đói , khi có công an đến rà , chủ xưởng bắt công nhân nữ phải trốn lên nóc nhà cao tầng… Sau 13 tháng “làm việc” xứ người , họ không nhận được một đồng lương , nhưng gặp dịp tốt là chung cuộc họ được về nước… Việc này tái diễn gần đây với 36 lao dong nữ cùng quê , rất may , những lá đơn kêu cứu của họ đã đến tay Đoàn đại biểu quốc hội ( QH ) tỉnh Thái Nguyên.Thiếu thông tin , thừa cò mồi liệt kê của Ủy ban các vấn đề từng lớp của QH cho thấy , trong những năm qua đã có 137 vụ liên can đến lường đảo XKLĐ được điều tra , xử lý; Khởi tố 186 bị can; xử lí hành chính 118 vụ với 133 đối tượng liên can. Cũng sau ba năm thực hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở ngoại quốc , có gần 2.000 đơn thư khiếu nại của người lao động gửi lên Bộ LĐ-TB&XH. Bộ cũng đã tiếp hành thanh tra , rà 191 lượt DN , xử lí vi phạm hành chính đối với 119 lượt DN. Căn nguyên dẫn đến các vụ lường đảo XKLĐ càng ngày càng Thêm lên được các đại biểu QH nhận định là do lợi nhuận trong khu vực này mang lại. Ngoài nhiệm vụ góp phần tạo công ăn việc làm cho NLĐ , việc DN XKLĐ nào cũng đua nhau đưa thật có lao động Việt Nam “xuất ngoại” là điều rành mạch. Số lượng NLĐ đồng nghĩa với những khoản lợi nhuận mà DN thu được. Ông Đỗ Mạnh Hùng , Phó đoàn trưởng đại biểu QH tỉnh Thái Nguyên tiết lộ: “Đã nắm chuẩn xác một DN thu của lao dong cả 100 triệu đồng nhưng chỉ ghi trên hóa đơn 19 , 5 triệu”. Thực tế , để đi làm việc ở ngoại quốc , tùy theo từng thị trường và nghề nghiệp trong hợp đồng mà NLĐ phải nộp cho các DN một mức phí khác nhau. Nhưng nói chung , họ phải “è cổ” nộp rất nhiều khoản , từ làm visa , khám sức khỏe , hộ chiếu , phí quản lý , phí môi giới , đào tạo định hướng , học tiếng nước ngoài , học nghề đến nhiều khoản ngoài danh mục như tiền ăn , ở , tiền quần áo , đồ dùng… Đặc biệt , những khoản thu này thường không công khai , sáng tỏ. Ngay cả trang web của cơ quan quản lý quốc gia về XKLĐ là Cục Quản lý lao dong ngoài nước cũng không tìm ra mục hướng dẫn NLĐ phải nộp các khoản phí nào…Trả lời chất vấn Đoàn giám sát của QH , bộ trưởng LĐ-TB&XH cho rằng , sở dĩ có hiện tượng “cò mồi” , lường đảo NLĐ là do NLĐ thiếu thông tin không mấy thuyết phục. Những lao động “ba không”Theo bẩm nghiên cứu lao động thiên cư từ Việt Nam đến các nước của trọng tâm nghiên cứu Phát triển quốc tế , khoảng 97% người đi XKLĐ không đủ tiêu chuẩn kinh tế để trang trải phí cho chuyến đi của mình. Có tới 62% trường hợp người đi XKLĐ phải cầm cố nhà , đất; 2% trường hợp phải cầm cố đất nông nghiệp , không ít người đã phải chịu mức lãi suất rất cao ( 1-2%/tháng )… hồ hết NLĐ vay tiền đi XKLĐ với lạc quan có chút vốn liếng để cải thiện cuộc sống không biết họ đang “đánh bạc”. Bởi lẽ , nhiều DN nhắm mắt xuôi tay làm liều , cứ thu tiền tài NLĐ mà không cần quan hoài NLĐ có đáp ứng các yêu cầu hay không và có phải về nước trước thời hạn hay không. Phải để ý một thực tế , LĐ Việt Nam đi làm việc ở ngoại quốc cốt là dân cày. Họ là những LĐ “ba không”: không nghề; không ngoại ngữ; không hay biết , tác phong công nghiệp. Ông Bùi Sỹ Lợi , Phó Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề từng lớp của QH cho rằng: “Việc không chuẩn bị kỹ về chất lượng khiến NLĐ Việt Nam sang làm việc tại ngoại quốc xảy ra hàng loạt vấn đề Rắc rối. Tỉ dụ , nước sở tại cấm ăn thịt chó thì giết thịt chó; cấm nấu rượu thì nấu rượu , cấm đánh bạc thì đánh bạc… Chính việc thiếu công khai , sáng tỏ các khoản phí ngoài luồng đã đè nặng lên vai NLĐ. Họ đã buộc phải vi phạm pháp luật: Bỏ trốn ra ngoài làm , tìm mọi cách kiếm tiền để hoàn lại phần đã bỏ ra”.Đau buồn nhất là những LĐ Việt Nam bị chết ở xứ người. Theo liệt kê của Cục Quản lý lao động ngoài nước , có khoảng 20.000 LĐ Việt Nam đang làm việc tại Malaysia với thu nhập đổ đồng tháng 2 , 5-4 triệu đồng. Tuy nhiên , từ năm 2004 đến nay , đã có khoảng 400 LĐ chết khi làm việc tại đây. Làng nhàng cứ 6 ngày lại có đơn lao dong phụ vong. Riêng năm 2007 , đã có 107 lao dong tử vong. Hệ lụy đã rõ ràngViệc tạo nguồn LĐ xuất biên vẫn rất có nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn. Căn nguyên là NLĐ trong nước mất niềm tin. Hưng thịnh NLĐ được hỏi đã tỏ ra hoang mang với tâm lý “tiền mất , tật mang” vì mắc phải bẫy lường đảo XKLĐ. Họ cũng cảm thấy bất an khi thấy nhiều LĐ phải về nước trước thời hạn với khoản nợ hàng chục triệu , nhiều LĐ phải bỏ thây ở xứ người rồi những chuyện bãi công , đánh nhau , bỏ trốn… Thêm vào đó , trước đây các DN quá dễ dãi trong việc tạo nguồn LĐ nên chỉ tìm được những thị trường thu nhập thấp , giờ đây không hấp dẫn NLĐ. Ông Nguyễn Xuân Vui , Giám đốc trọng tâm XKLĐ Airsenco cho biết , nếu như trước đây ( năm 2005 – 2007 ) tại thị trường Malaysia , mỗi năm có khoảng 10.000 NLĐ sang làm việc thì nay giảm xuống còn 2.500 người , đổ đồng mỗi DN chỉ được khoảng 32 lao động .Ông Bùi Sỹ Lợi lo lắng: “Việt Nam là một nước có nguồn lao động rất nhiều , NLĐ được đánh giá là siêng năng , chuyên cần , tinh thần nhanh nhẹn và tháo vát hấp thụ công nghệ mới nhưng vì sao LĐ Việt Nam sang ngoại quốc làm việc vẫn chưa có “thương hiệu”. Điều này khuyết điểm của các DN không chú trọng đến chất lượng LĐ. Trong khi 80% lao động Philippines biết tiếng Anh , tỷ lệ học đại học chiếm 70-80% thì lao dong của ta cốt tốt nghiệp phổ quát , tiếng nước ngoài rất kém”. Hệ quả này có tác động đến một điều gì đó trực tiếp đến vị trí Việt Nam trên thị trường LĐ quốc tế. Thị phần lao động của Việt Nam đang dần bị thu hẹp trên bản đồ XKLĐ thế giới. Trong số 40 quốc gia và vùng bờ cõi , hiện tại hoạt động cung ứng LĐ của Việt Nam chỉ tập trung ở 9 thị trường gồm: Hàn Quốc , Nhật Bản , Đài Loan ( Trung Quốc ) , Macao ( Trung Quốc ) , Malaysia , UAE , Saudi Arabia , Bahrain , Libya. Hàng loạt thị trường tiềm năng được đánh giá là thị trường “nghìn đô” về thu nhập cho NLĐ như Australia , một số nước Tây Âu , Đông Âu và Mỹ… sau một thời kì được các DN Việt Nam tiếp cận đến nay đều đã đóng cửa. Theo Cục Quản lý lao dong ngoài nước , trong sáu tháng đầu năm cả nước chỉ có 37.068 người đi XKLĐ , đạt 43% kế hoạch năm. Dù cho năm nay , Bộ LĐ-TB&XH đã giảm định mức XKLĐ xuống còn 85.000 người so với dự kiến 100.000 người nhưng nhiều khả năng vẫn không đạt được. Dẫu chậm còn hơn không , sau hoạt động giám sát của QH , rất mong hoạt động XKLĐ sẽ được chỉnh đốn và có hướng đi mới.

Xuất cảng lao động , tham bát bỏ mâm

Nhưng vì sao , hoạt động xuất biên lao động ( XKLĐ ) vẫn chưa tạo niềm tin cho người lao động trong nước , còn lao dong Việt Nam tại ngoại quốc vẫn chưa có “thương hiệu”?Người mong việc , doanh nghiệp nhăm nhăm kiếm chácChỉ riêng ba năm ( từ năm 2006 đến hết năm 2008 ) , đã có khoảng 250.000 lao động Việt Nam đi làm việc ở ngoại quốc ( đổ đồng khoảng 83.000 người/năm ). Làng nhàng một doanh nghiệp ( DN ) đưa được 600 - 1.000 lao dong đi làm việc ở ngoại quốc , thậm chí một số DN còn đưa được 2.000 người. Phong trào XKLĐ đến từng ngõ , gõ cửa từng nhà. Địa ngục lao dong ( NLĐ ) thì được “xuất ngoại” , ôm mộng nhận lương ngoại tệ , còn DN “rủng rỉnh” các loại phí…Hiện tại , hoạt động XKLĐ đang “phủ sóng” mạnh mẽ. Đến nay , trên cả nước , cỗ lao động – Thương binh và từng lớp ( LĐ-TB&XH ) đã cấp phép cho 171 DN hoạt động trong khu vực XKLĐ. Theo quy định , mỗi DN lại được phép thành lập ba chi nhánh , dưới các chi nhánh lại là các trọng tâm đào tạo nên số lượng chức vụ làm XKLĐ thực tế phải tới hơn 500 đơn vị... Không khó gì giảng giải hiện tượng cách đây tròn một năm , 32 lao động nữ quê ở Thái Nguyên phải sống cảnh vạ vật ở Hà Nội , bám trụ ở các cơ quan công năng để đòi “công bằng” cho mình. Họ được một công ti , trực thuộc tập đoàn lớn ( có giấy phép XKLĐ do Bộ LĐ-TB&XH cấp ) đến địa phương thông tin tuyển sang Nga làm mướn nhân may công nghiệp với phí ngót 41 triệu đồng. Đặt chân đến nước bạn , cạc lao dong nữ tá hỏa khi biết mình phải làm việc tại một xưởng may chui. Họ phải dùng nước không vệ sinh , cứ sau 12 tiếng làm việc mới được ăn , thậm chí khi không có việc thì bị bỏ đói , khi có công an đến rà , chủ xưởng bắt công nhân nữ phải trốn lên nóc nhà cao tầng… Sau 13 tháng “làm việc” xứ người , họ không nhận được một đồng lương , nhưng gặp dịp tốt là chung cuộc họ được về nước… Việc này tái diễn gần đây với 36 lao dong nữ cùng quê , rất may , những lá đơn kêu cứu của họ đã đến tay Đoàn đại biểu quốc hội ( QH ) tỉnh Thái Nguyên.Thiếu thông tin , thừa cò mồi liệt kê của Ủy ban các vấn đề từng lớp của QH cho thấy , trong những năm qua đã có 137 vụ liên can đến lường đảo XKLĐ được điều tra , xử lý; Khởi tố 186 bị can; xử lí hành chính 118 vụ với 133 đối tượng liên can. Cũng sau ba năm thực hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở ngoại quốc , có gần 2.000 đơn thư khiếu nại của người lao động gửi lên Bộ LĐ-TB&XH. Bộ cũng đã tiếp hành thanh tra , rà 191 lượt DN , xử lí vi phạm hành chính đối với 119 lượt DN. Căn nguyên dẫn đến các vụ lường đảo XKLĐ càng ngày càng Thêm lên được các đại biểu QH nhận định là do lợi nhuận trong khu vực này mang lại. Ngoài nhiệm vụ góp phần tạo công ăn việc làm cho NLĐ , việc DN XKLĐ nào cũng đua nhau đưa thật có lao động Việt Nam “xuất ngoại” là điều rành mạch. Số lượng NLĐ đồng nghĩa với những khoản lợi nhuận mà DN thu được. Ông Đỗ Mạnh Hùng , Phó đoàn trưởng đại biểu QH tỉnh Thái Nguyên tiết lộ: “Đã nắm chuẩn xác một DN thu của lao dong cả 100 triệu đồng nhưng chỉ ghi trên hóa đơn 19 , 5 triệu”. Thực tế , để đi làm việc ở ngoại quốc , tùy theo từng thị trường và nghề nghiệp trong hợp đồng mà NLĐ phải nộp cho các DN một mức phí khác nhau. Nhưng nói chung , họ phải “è cổ” nộp rất nhiều khoản , từ làm visa , khám sức khỏe , hộ chiếu , phí quản lý , phí môi giới , đào tạo định hướng , học tiếng nước ngoài , học nghề đến nhiều khoản ngoài danh mục như tiền ăn , ở , tiền quần áo , đồ dùng… Đặc biệt , những khoản thu này thường không công khai , sáng tỏ. Ngay cả trang web của cơ quan quản lý quốc gia về XKLĐ là Cục Quản lý lao dong ngoài nước cũng không tìm ra mục hướng dẫn NLĐ phải nộp các khoản phí nào…Trả lời chất vấn Đoàn giám sát của QH , bộ trưởng LĐ-TB&XH cho rằng , sở dĩ có hiện tượng “cò mồi” , lường đảo NLĐ là do NLĐ thiếu thông tin không mấy thuyết phục. Những lao động “ba không”Theo bẩm nghiên cứu lao động thiên cư từ Việt Nam đến các nước của trọng tâm nghiên cứu Phát triển quốc tế , khoảng 97% người đi XKLĐ không đủ tiêu chuẩn kinh tế để trang trải phí cho chuyến đi của mình. Có tới 62% trường hợp người đi XKLĐ phải cầm cố nhà , đất; 2% trường hợp phải cầm cố đất nông nghiệp , không ít người đã phải chịu mức lãi suất rất cao ( 1-2%/tháng )… hồ hết NLĐ vay tiền đi XKLĐ với lạc quan có chút vốn liếng để cải thiện cuộc sống không biết họ đang “đánh bạc”. Bởi lẽ , nhiều DN nhắm mắt xuôi tay làm liều , cứ thu tiền tài NLĐ mà không cần quan hoài NLĐ có đáp ứng các yêu cầu hay không và có phải về nước trước thời hạn hay không. Phải để ý một thực tế , LĐ Việt Nam đi làm việc ở ngoại quốc cốt là dân cày. Họ là những LĐ “ba không”: không nghề; không ngoại ngữ; không hay biết , tác phong công nghiệp. Ông Bùi Sỹ Lợi , Phó Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề từng lớp của QH cho rằng: “Việc không chuẩn bị kỹ về chất lượng khiến NLĐ Việt Nam sang làm việc tại ngoại quốc xảy ra hàng loạt vấn đề Rắc rối. Tỉ dụ , nước sở tại cấm ăn thịt chó thì giết thịt chó; cấm nấu rượu thì nấu rượu , cấm đánh bạc thì đánh bạc… Chính việc thiếu công khai , sáng tỏ các khoản phí ngoài luồng đã đè nặng lên vai NLĐ. Họ đã buộc phải vi phạm pháp luật: Bỏ trốn ra ngoài làm , tìm mọi cách kiếm tiền để hoàn lại phần đã bỏ ra”.Đau buồn nhất là những LĐ Việt Nam bị chết ở xứ người. Theo liệt kê của Cục Quản lý lao động ngoài nước , có khoảng 20.000 LĐ Việt Nam đang làm việc tại Malaysia với thu nhập đổ đồng tháng 2 , 5-4 triệu đồng. Tuy nhiên , từ năm 2004 đến nay , đã có khoảng 400 LĐ chết khi làm việc tại đây. Làng nhàng cứ 6 ngày lại có đơn lao dong phụ vong. Riêng năm 2007 , đã có 107 lao dong tử vong. Hệ lụy đã rõ ràngViệc tạo nguồn LĐ xuất biên vẫn rất có nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn. Căn nguyên là NLĐ trong nước mất niềm tin. Hưng thịnh NLĐ được hỏi đã tỏ ra hoang mang với tâm lý “tiền mất , tật mang” vì mắc phải bẫy lường đảo XKLĐ. Họ cũng cảm thấy bất an khi thấy nhiều LĐ phải về nước trước thời hạn với khoản nợ hàng chục triệu , nhiều LĐ phải bỏ thây ở xứ người rồi những chuyện bãi công , đánh nhau , bỏ trốn… Thêm vào đó , trước đây các DN quá dễ dãi trong việc tạo nguồn LĐ nên chỉ tìm được những thị trường thu nhập thấp , giờ đây không hấp dẫn NLĐ. Ông Nguyễn Xuân Vui , Giám đốc trọng tâm XKLĐ Airsenco cho biết , nếu như trước đây ( năm 2005 – 2007 ) tại thị trường Malaysia , mỗi năm có khoảng 10.000 NLĐ sang làm việc thì nay giảm xuống còn 2.500 người , đổ đồng mỗi DN chỉ được khoảng 32 lao động .Ông Bùi Sỹ Lợi lo lắng: “Việt Nam là một nước có nguồn lao động rất nhiều , NLĐ được đánh giá là siêng năng , chuyên cần , tinh thần nhanh nhẹn và tháo vát hấp thụ công nghệ mới nhưng vì sao LĐ Việt Nam sang ngoại quốc làm việc vẫn chưa có “thương hiệu”. Điều này khuyết điểm của các DN không chú trọng đến chất lượng LĐ. Trong khi 80% lao động Philippines biết tiếng Anh , tỷ lệ học đại học chiếm 70-80% thì lao dong của ta cốt tốt nghiệp phổ quát , tiếng nước ngoài rất kém”. Hệ quả này có tác động đến một điều gì đó trực tiếp đến vị trí Việt Nam trên thị trường LĐ quốc tế. Thị phần lao động của Việt Nam đang dần bị thu hẹp trên bản đồ XKLĐ thế giới. Trong số 40 quốc gia và vùng bờ cõi , hiện tại hoạt động cung ứng LĐ của Việt Nam chỉ tập trung ở 9 thị trường gồm: Hàn Quốc , Nhật Bản , Đài Loan ( Trung Quốc ) , Macao ( Trung Quốc ) , Malaysia , UAE , Saudi Arabia , Bahrain , Libya. Hàng loạt thị trường tiềm năng được đánh giá là thị trường “nghìn đô” về thu nhập cho NLĐ như Australia , một số nước Tây Âu , Đông Âu và Mỹ… sau một thời kì được các DN Việt Nam tiếp cận đến nay đều đã đóng cửa. Theo Cục Quản lý lao dong ngoài nước , trong sáu tháng đầu năm cả nước chỉ có 37.068 người đi XKLĐ , đạt 43% kế hoạch năm. Dù cho năm nay , Bộ LĐ-TB&XH đã giảm định mức XKLĐ xuống còn 85.000 người so với dự kiến 100.000 người nhưng nhiều khả năng vẫn không đạt được. Dẫu chậm còn hơn không , sau hoạt động giám sát của QH , rất mong hoạt động XKLĐ sẽ được chỉnh đốn và có hướng đi mới.

Ảnh minh họa. Nguồn: afamily.com ( ĐCSVN ) – Liên bộ lao động – Thương binh và tầng lớp , Bộ Y tế vừa ban hành Thông tư liên tịch số 40/2011/TTLT-BLĐTBXH- BYT , ngày 28/12/2011 quy định các điều kiện lao động có hại và các công việc không được dùng lao dong nữ , lao dong nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Thông tư nêu rõ , các điều kiện lao động có hại không được dùng lao động nữ bao gồm:nơi làm việc có áp suất lớn hơn áp suất khí quyển; nơi làm việc chênh vênh nguy hiểm;ngâm mình luôn dưới nước ( từ 4 giờ một ngày trở lên , trên 3 ngày 1 tuần );nặng nhọc quá sức ( mức tiêu hao năng lượng trung bình trên 5 Kcal/phút , nhịp tim trung bình trên 120/phút );tiếp xúc với nguồn phóng xạ hở. Ngoài những điều kiện lao dong có hại nêu trên , Thông tư cũng tu bổ một số điều kiện lao động có hại không được dùng lao động nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi , gồm: tiếp xúc với điện từ trường quá Phạm vi cho phép; trực tiếp tiếp xúc với một số hóa chất mà sự tích lũy của nó trong cơ thể dễ gây biến chuyển gen hoặc ảnh hưởng xấu đến chuyển hóa tế bào , dễ gây sẩy thai , Sanh thiếu tháng , nhiễm trùng nhau thai , dị tật bẩm sinh , ảnh hưởng xấu tới nguồn sữa mẹ , viêm nhiễm đường hô hấp; ngâm mình dưới nước bẩn , dễ bị nhiễm trùng; nhiệt độ khí trời trong nhà xưởng từ 40 0 C trở lên về mùa hè và từ 32 0 C trở lên về mùa đông hoặc chịu ảnh hưởng của bức xạ nhiệt cao; trong môi dài lao động có độ rung cao hơn Các quy định cho phép; dùng các loại máy , thiết bị có độ rung toàn thân và rung cục bộ cao hơn Các quy định cho phép; tư thế làm việc gò ép hoặc thiếu dưỡng khí. Cùng với đó , Thông tư trên cũng ban hành kèm theo danh mục 79 công việc không được dùng đối với lao dong nữ , lao dong nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi ( trong đó có 45 công việc không được dùng đối với cả 3 đối tượng trên và 34 công việc không được dùng lao dong nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng ) , tiêu biểu như: công việc ở các đài phát sóng tần suất radiô như đài phát thanh , phát hình và trạm ra đa , trạm vệ tinh viễn thông bị ô nhiễm bởi điện từ trường vượt quá Các quy định cho phép; công việc với xăng dầu tại các trạm bán lẻ , kiểm nghiệm , trong hang hầm: giao nhận bảo quản , vận hành máy bơm và đo xăng dầu; công việc trực tiếp tiếp xúc với hóa chất thuốc nhuộm trong các nhà máy nhuộm như: thủ kho , phụ kho hóa chất; pha chế hóa chất thuốc nhuộm; làm việc ở lò lên men thuốc lá , thuốc lào , lò sấy điếu thuốc lá; vào hộp sữa trong buồng kín... Thông tư này có công dụng Việc trông coi sắp đặt kể từ ngày 20/2/2012./. Ảnh minh họa. Nguồn: afamily.com.

79 nghề nghiệp không được sử dụng phụ nữ có mang hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng

Ảnh minh họa. Nguồn: afamily.com ( ĐCSVN ) – Liên bộ lao động – Thương binh và tầng lớp , Bộ Y tế vừa ban hành Thông tư liên tịch số 40/2011/TTLT-BLĐTBXH- BYT , ngày 28/12/2011 quy định các điều kiện lao động có hại và các công việc không được dùng lao dong nữ , lao dong nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Thông tư nêu rõ , các điều kiện lao động có hại không được dùng lao động nữ bao gồm:nơi làm việc có áp suất lớn hơn áp suất khí quyển; nơi làm việc chênh vênh nguy hiểm;ngâm mình luôn dưới nước ( từ 4 giờ một ngày trở lên , trên 3 ngày 1 tuần );nặng nhọc quá sức ( mức tiêu hao năng lượng trung bình trên 5 Kcal/phút , nhịp tim trung bình trên 120/phút );tiếp xúc với nguồn phóng xạ hở. Ngoài những điều kiện lao dong có hại nêu trên , Thông tư cũng tu bổ một số điều kiện lao động có hại không được dùng lao động nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi , gồm: tiếp xúc với điện từ trường quá Phạm vi cho phép; trực tiếp tiếp xúc với một số hóa chất mà sự tích lũy của nó trong cơ thể dễ gây biến chuyển gen hoặc ảnh hưởng xấu đến chuyển hóa tế bào , dễ gây sẩy thai , Sanh thiếu tháng , nhiễm trùng nhau thai , dị tật bẩm sinh , ảnh hưởng xấu tới nguồn sữa mẹ , viêm nhiễm đường hô hấp; ngâm mình dưới nước bẩn , dễ bị nhiễm trùng; nhiệt độ khí trời trong nhà xưởng từ 40 0 C trở lên về mùa hè và từ 32 0 C trở lên về mùa đông hoặc chịu ảnh hưởng của bức xạ nhiệt cao; trong môi dài lao động có độ rung cao hơn Các quy định cho phép; dùng các loại máy , thiết bị có độ rung toàn thân và rung cục bộ cao hơn Các quy định cho phép; tư thế làm việc gò ép hoặc thiếu dưỡng khí. Cùng với đó , Thông tư trên cũng ban hành kèm theo danh mục 79 công việc không được dùng đối với lao dong nữ , lao dong nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng tuổi ( trong đó có 45 công việc không được dùng đối với cả 3 đối tượng trên và 34 công việc không được dùng lao dong nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 12 tháng ) , tiêu biểu như: công việc ở các đài phát sóng tần suất radiô như đài phát thanh , phát hình và trạm ra đa , trạm vệ tinh viễn thông bị ô nhiễm bởi điện từ trường vượt quá Các quy định cho phép; công việc với xăng dầu tại các trạm bán lẻ , kiểm nghiệm , trong hang hầm: giao nhận bảo quản , vận hành máy bơm và đo xăng dầu; công việc trực tiếp tiếp xúc với hóa chất thuốc nhuộm trong các nhà máy nhuộm như: thủ kho , phụ kho hóa chất; pha chế hóa chất thuốc nhuộm; làm việc ở lò lên men thuốc lá , thuốc lào , lò sấy điếu thuốc lá; vào hộp sữa trong buồng kín... Thông tư này có công dụng Việc trông coi sắp đặt kể từ ngày 20/2/2012./. Ảnh minh họa. Nguồn: afamily.com.

Đây là Sự tình rất được quan tâm trong phông nền ngày nay – khi mà ngày càng có nhiều khu Công lao ( KCN ) mọc lên trong khắp cả nước. Hội thảo có sự dự khán của gần 100 đại biểu đến từ các bộ , ban , ngành , cơ quan , tổ chức liên đới của Việt Nam và Nhật Bản. Hội thảo tập kết vào các Sự tình chính như: Truyền thông về các Sự tình liên hệ đến điều kiện sống của công nhân; san sẻ Cuối cùng thông báo quan trọng từ các nghiên cứu; san sẻ ý kiến và giải pháp để cải thiện môi trường sống của người công nhân...Hiện nay , Việt Nam có 253 KCN. Sau gần 20 năm xây dựng và phát triển , các KCN ở Việt Nam đã từng bước khẳng định được vị trí , vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - tầng lớp của núi sông và góp phần sang nhượng cơ cấu kinh tế tại các Vùng đất theo hướng Công lao hóa.Các khu Công lao tập kết đã tạo công ăn việc làm cho khoảng 1 , 5 triệu lao dong , góp phần giải quyết có công hiệu tỷ lệ thất nghiệp , đặc biệt là tại các vùng nông thôn; góp phần đào tạo hàng ngũ công nhân mới , có Thấp kỹ thuật , kỷ luật cao…Tuy nhiên ngày nay , Sự tình xây dựng môi trường sống xung quanh khu Công lao cho người lao động ( chợ , học hiệu , cơ sở y tế , nhà văn hóa… ) chưa được quan tâm đúng mức. Hầu hết lao dong tại các KCN đều phải sống trong môi trường với các tiện nghi , tiện ích công cộng Tháng không đủ ăn cả về chất và lượng nên đã ảnh hưởng đến Chỗ ở , tinh thần của người lao dong và Nhà ở họ. Sự tình về an ninh tầng lớp , vệ sinh môi trường xung quanh các khu Công lao đã và đang trở thành Sự tình bức xúc của toàn xã hội.Với mục tiêu trong thời kì tới phát triển KCN đi đôi với việc gác canh môi trường trong và ngoài KCN thì việc tạo ra một môi trường sống xung quanh các KCN có tiện nghi , tiện ích đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của người lao động để tạo ra nguồn lao dong có chất lượng , gắn bó với doanh nghiệp là nhu yếu. Trong phông nền trên , Sáng kiến chung Việt Nam- Nhật Bản 3 đã ghi nhân sự nhu yếu phải phát triển môi trường sống xung quanh các khu Công lao. Theo đó , từ tháng 3 đến tháng 12 , JICA đã tương trợ tiến hành Học hỏi nhằm tìm ra giải pháp cho Sự tình nêu trên. Hội thảo là một trong những hoạt động của phạm vi Sáng kiến chung Việt Nam- Nhật Bản , thời kì 3 ( WT1-3 ) nhằm hoạch định những cơ sở hạ tầng công cộng nhu yếu để có thể tạo một môi trường sống ưu tú cho công nhân tại các khu công nghiệp.Tại Hội thảo , các nhà quản lý , chuyên gia nghiên cứ trong nước và Nhật Bản đều đưa ra nhận định: Không chỉ gia cư mà còn phát triển hạ tầng đô thị và hạ tầng tầng lớp là điều kiện tiên quyết để người công nhân có thể ổn định cuộc sống. Sự tình này cần phải có sự dự khán của nhà nước , các thành phần kinh tế và đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng lao động trong các KCN./.

Hội thảo về cải thiện môi trường sống cho người lao dong tại các khu công nghiệp

Đây là Sự tình rất được quan tâm trong phông nền ngày nay – khi mà ngày càng có nhiều khu Công lao ( KCN ) mọc lên trong khắp cả nước. Hội thảo có sự dự khán của gần 100 đại biểu đến từ các bộ , ban , ngành , cơ quan , tổ chức liên đới của Việt Nam và Nhật Bản. Hội thảo tập kết vào các Sự tình chính như: Truyền thông về các Sự tình liên hệ đến điều kiện sống của công nhân; san sẻ Cuối cùng thông báo quan trọng từ các nghiên cứu; san sẻ ý kiến và giải pháp để cải thiện môi trường sống của người công nhân...Hiện nay , Việt Nam có 253 KCN. Sau gần 20 năm xây dựng và phát triển , các KCN ở Việt Nam đã từng bước khẳng định được vị trí , vai trò quan trọng trong công cuộc phát triển kinh tế - tầng lớp của núi sông và góp phần sang nhượng cơ cấu kinh tế tại các Vùng đất theo hướng Công lao hóa.Các khu Công lao tập kết đã tạo công ăn việc làm cho khoảng 1 , 5 triệu lao dong , góp phần giải quyết có công hiệu tỷ lệ thất nghiệp , đặc biệt là tại các vùng nông thôn; góp phần đào tạo hàng ngũ công nhân mới , có Thấp kỹ thuật , kỷ luật cao…Tuy nhiên ngày nay , Sự tình xây dựng môi trường sống xung quanh khu Công lao cho người lao động ( chợ , học hiệu , cơ sở y tế , nhà văn hóa… ) chưa được quan tâm đúng mức. Hầu hết lao dong tại các KCN đều phải sống trong môi trường với các tiện nghi , tiện ích công cộng Tháng không đủ ăn cả về chất và lượng nên đã ảnh hưởng đến Chỗ ở , tinh thần của người lao dong và Nhà ở họ. Sự tình về an ninh tầng lớp , vệ sinh môi trường xung quanh các khu Công lao đã và đang trở thành Sự tình bức xúc của toàn xã hội.Với mục tiêu trong thời kì tới phát triển KCN đi đôi với việc gác canh môi trường trong và ngoài KCN thì việc tạo ra một môi trường sống xung quanh các KCN có tiện nghi , tiện ích đáp ứng nhu cầu vật chất và tinh thần của người lao động để tạo ra nguồn lao dong có chất lượng , gắn bó với doanh nghiệp là nhu yếu. Trong phông nền trên , Sáng kiến chung Việt Nam- Nhật Bản 3 đã ghi nhân sự nhu yếu phải phát triển môi trường sống xung quanh các khu Công lao. Theo đó , từ tháng 3 đến tháng 12 , JICA đã tương trợ tiến hành Học hỏi nhằm tìm ra giải pháp cho Sự tình nêu trên. Hội thảo là một trong những hoạt động của phạm vi Sáng kiến chung Việt Nam- Nhật Bản , thời kì 3 ( WT1-3 ) nhằm hoạch định những cơ sở hạ tầng công cộng nhu yếu để có thể tạo một môi trường sống ưu tú cho công nhân tại các khu công nghiệp.Tại Hội thảo , các nhà quản lý , chuyên gia nghiên cứ trong nước và Nhật Bản đều đưa ra nhận định: Không chỉ gia cư mà còn phát triển hạ tầng đô thị và hạ tầng tầng lớp là điều kiện tiên quyết để người công nhân có thể ổn định cuộc sống. Sự tình này cần phải có sự dự khán của nhà nước , các thành phần kinh tế và đặc biệt là các doanh nghiệp sử dụng lao động trong các KCN./.

Bộ cần lao - Thương binh và xã hội request các doanh nghiệp: thực hành đúng quy định về mức phí tổn đối với người cần lao đi làm việc tại Đài Loan. Cụ thể như sau: Tổng phí tổn của người cần lao trước khi đi làm việc trong các ngành công nghiệp tại Đài Loan không vượt quá 4.500USD/người/hợp đồng ba năm , trong đó tiền môi giới tối đa không quá 1.500USD/người/hợp đồng ba năm. Tổng phí tổn của người cần lao trước khi đi làm việc trong gia đình và chăm sóc sức khỏe tại Đài Loan không vượt quá 3.800USD/người/hợp đồng ba năm , trong đó tiền môi giới tối đa không quá 800 USD/người/hợp đồng ba năm.Doanh nghiệp có xác xuất thỏa thuận với người cần lao việc ký quỹ chắc chắn thực hành giao kèo nhưng mức tiền ký quỹ tối đa không quá 1.000 USD/người/hợp đồng ba năm.Tất cả các phí tổn người cần lao đóng góp trước khi đi làm việc tại Đài Loan phải được ghi đầy đủ , chi tiết trong giao kèo đưa người cần lao đi làm việc ở nước ngoài , trong đăng kí giao kèo và phải được quản lý , sử dụng theo đúng quy định của luật pháp. Doanh nghiệp phải cung cấp cho người cần lao đầy đủ hóa đơn , chứng từ liên tưởng đến các phí tổn mà người cần lao phải đóng góp trước khi đi để kiểm tra , giám sát.Các doanh nghiệp phải báo cáo cho Cục Quản lý cần lao ngoài nước những trường hợp đối tác nước ngoài request thu các khoản phí tổn cao hơn mức quy định trên đây để báo cáo cho các doanh nghiệp khác biết và báo cáo cho phía Đài Loan kết hợp xử lý.Bộ cần lao , Thương binh , xã hội yêu cầu: Mỗi chi nhánh của doanh nghiệp được ủy quyền hoạt động đưa người cần lao đi làm việc ở nước ngoài chỉ được tổ chức tuyển chọn , đào tạo cần lao trước khi đi ở một nơi chốn. Các doanh nghiệp báo cáo Cục Quản lý cần lao ngoài nước chức vị , số fone nơi doanh nghiệp và chi nhánh tổ chức tuyển chọn , đào tạo cần lao , họ tên Giám đốc chi nhánh và cán bộ trực tiếp thực hiện.Doanh nghiệp không được phép cho các tổ chức , cá nhân chủ nghĩa nước ngoài sử dụng pháp nhân để tổ chức tuyển chọn , thu tiền đưa cần lao đi làm việc tại Đài Loan dưới bất kỳ hình thức nào.Doanh nghiệp có giấy phép hoạt động service đưa người cần lao đi làm việc ở nước ngoài nhưng chưa có giấy phép của phía Đài Loan có xác xuất ký giao kèo hiệp tác với một doanh nghiệp khác có giấy phép của phía Đài Loan ( và ngược lại ) để tổ chức đưa cần lao sang làm việc tại Đài Loan. Giao kèo hiệp tác phải được đăng kí tại Cục Quản lý cần lao ngoài nước trước khi thực hành để theo dõi , quản ngại lý. Ví như phát hiện người cần lao được tuyển chọn , đào tạo để đi làm việc tại Đài Loan sau ngày 1-4-2012 mà phải chịu các phí tổn cao hơn quy định; doanh nghiệp , chi nhánh của doanh nghiệp vi phạm quy định thì doanh nghiệp sẽ bị các cơ quan công năng xử lí theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính. Ví như tiếp kiến vi phạm , Cục Quản lý cần lao ngoài nước sẽ kết hợp với phía Đài Loan thu hồi đất đai giấy phép đưa người cần lao sang làm việc tại Đài Loan của doanh nghiệp và xử lí theo quy định của pháp luật.Bộ cần lao , Thương binh và xã hội request các cơ quan công năng , các doanh nghiệp xuất cảng cần lao kết hợp thực hành các phương pháp giảm tỷ lệ cần lao bỏ giao kèo , ngụ phi pháp tại Đài Loan. Theo đó , các doanh nghiệp cùng với đối tác và người sử dụng cần lao quản lý , theo dõi tình hình cần lao đang làm việc tại Đài Loan , đặc biệt là số cần lao sắp hết hạn giao kèo , kịp thời giải quyết những phát sinh liên tưởng đến người cần lao đang làm việc tại Đài Loan nhằm ngăn ngừa tình trạng người cần lao bỏ giao kèo hoặc hết hạn giao kèo không về nước. Phê duyệt đối tác , gia đình người cần lao để liên tưởng , cơ năng người cần lao đã bỏ giao kèo đang ngụ phi pháp tại Đài Loan tự nguyện đăng kí về nước. Trường hợp cần thiết , doanh nghiệp phải tạm ứng tiền mua vé máy bay cho người cần lao. Định kỳ hằng quý , Cục Quản lý cần lao ngoài nước kết hợp với phía Đài Loan báo cáo số lượng , danh sách và tỷ lệ cần lao bỏ giao kèo của các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có tỷ lệ cần lao bỏ giao kèo cao hơn mức đổ đồng chung của cần lao Việt Nam tại thời khắc báo cáo thì phải tạm dừng đưa cần lao mới sang Đài Loan để thực hành các phương pháp giảm tỷ lệ cần lao bỏ giao kèo. Doanh nghiệp chỉ được phép tiếp kiến đưa cần lao sang Đài Loan làm việc khi có tỷ lệ cần lao bỏ giao kèo bằng hoặc thấp hơn mức đổ đồng chung của cần lao Việt Nam tại thời khắc đó.

Chấn chỉnh việc đưa lao động sang Đài Loan làm việc

Bộ cần lao - Thương binh và xã hội request các doanh nghiệp: thực hành đúng quy định về mức phí tổn đối với người cần lao đi làm việc tại Đài Loan. Cụ thể như sau: Tổng phí tổn của người cần lao trước khi đi làm việc trong các ngành công nghiệp tại Đài Loan không vượt quá 4.500USD/người/hợp đồng ba năm , trong đó tiền môi giới tối đa không quá 1.500USD/người/hợp đồng ba năm. Tổng phí tổn của người cần lao trước khi đi làm việc trong gia đình và chăm sóc sức khỏe tại Đài Loan không vượt quá 3.800USD/người/hợp đồng ba năm , trong đó tiền môi giới tối đa không quá 800 USD/người/hợp đồng ba năm.Doanh nghiệp có xác xuất thỏa thuận với người cần lao việc ký quỹ chắc chắn thực hành giao kèo nhưng mức tiền ký quỹ tối đa không quá 1.000 USD/người/hợp đồng ba năm.Tất cả các phí tổn người cần lao đóng góp trước khi đi làm việc tại Đài Loan phải được ghi đầy đủ , chi tiết trong giao kèo đưa người cần lao đi làm việc ở nước ngoài , trong đăng kí giao kèo và phải được quản lý , sử dụng theo đúng quy định của luật pháp. Doanh nghiệp phải cung cấp cho người cần lao đầy đủ hóa đơn , chứng từ liên tưởng đến các phí tổn mà người cần lao phải đóng góp trước khi đi để kiểm tra , giám sát.Các doanh nghiệp phải báo cáo cho Cục Quản lý cần lao ngoài nước những trường hợp đối tác nước ngoài request thu các khoản phí tổn cao hơn mức quy định trên đây để báo cáo cho các doanh nghiệp khác biết và báo cáo cho phía Đài Loan kết hợp xử lý.Bộ cần lao , Thương binh , xã hội yêu cầu: Mỗi chi nhánh của doanh nghiệp được ủy quyền hoạt động đưa người cần lao đi làm việc ở nước ngoài chỉ được tổ chức tuyển chọn , đào tạo cần lao trước khi đi ở một nơi chốn. Các doanh nghiệp báo cáo Cục Quản lý cần lao ngoài nước chức vị , số fone nơi doanh nghiệp và chi nhánh tổ chức tuyển chọn , đào tạo cần lao , họ tên Giám đốc chi nhánh và cán bộ trực tiếp thực hiện.Doanh nghiệp không được phép cho các tổ chức , cá nhân chủ nghĩa nước ngoài sử dụng pháp nhân để tổ chức tuyển chọn , thu tiền đưa cần lao đi làm việc tại Đài Loan dưới bất kỳ hình thức nào.Doanh nghiệp có giấy phép hoạt động service đưa người cần lao đi làm việc ở nước ngoài nhưng chưa có giấy phép của phía Đài Loan có xác xuất ký giao kèo hiệp tác với một doanh nghiệp khác có giấy phép của phía Đài Loan ( và ngược lại ) để tổ chức đưa cần lao sang làm việc tại Đài Loan. Giao kèo hiệp tác phải được đăng kí tại Cục Quản lý cần lao ngoài nước trước khi thực hành để theo dõi , quản ngại lý. Ví như phát hiện người cần lao được tuyển chọn , đào tạo để đi làm việc tại Đài Loan sau ngày 1-4-2012 mà phải chịu các phí tổn cao hơn quy định; doanh nghiệp , chi nhánh của doanh nghiệp vi phạm quy định thì doanh nghiệp sẽ bị các cơ quan công năng xử lí theo quy định về xử phạt vi phạm hành chính. Ví như tiếp kiến vi phạm , Cục Quản lý cần lao ngoài nước sẽ kết hợp với phía Đài Loan thu hồi đất đai giấy phép đưa người cần lao sang làm việc tại Đài Loan của doanh nghiệp và xử lí theo quy định của pháp luật.Bộ cần lao , Thương binh và xã hội request các cơ quan công năng , các doanh nghiệp xuất cảng cần lao kết hợp thực hành các phương pháp giảm tỷ lệ cần lao bỏ giao kèo , ngụ phi pháp tại Đài Loan. Theo đó , các doanh nghiệp cùng với đối tác và người sử dụng cần lao quản lý , theo dõi tình hình cần lao đang làm việc tại Đài Loan , đặc biệt là số cần lao sắp hết hạn giao kèo , kịp thời giải quyết những phát sinh liên tưởng đến người cần lao đang làm việc tại Đài Loan nhằm ngăn ngừa tình trạng người cần lao bỏ giao kèo hoặc hết hạn giao kèo không về nước. Phê duyệt đối tác , gia đình người cần lao để liên tưởng , cơ năng người cần lao đã bỏ giao kèo đang ngụ phi pháp tại Đài Loan tự nguyện đăng kí về nước. Trường hợp cần thiết , doanh nghiệp phải tạm ứng tiền mua vé máy bay cho người cần lao. Định kỳ hằng quý , Cục Quản lý cần lao ngoài nước kết hợp với phía Đài Loan báo cáo số lượng , danh sách và tỷ lệ cần lao bỏ giao kèo của các doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có tỷ lệ cần lao bỏ giao kèo cao hơn mức đổ đồng chung của cần lao Việt Nam tại thời khắc báo cáo thì phải tạm dừng đưa cần lao mới sang Đài Loan để thực hành các phương pháp giảm tỷ lệ cần lao bỏ giao kèo. Doanh nghiệp chỉ được phép tiếp kiến đưa cần lao sang Đài Loan làm việc khi có tỷ lệ cần lao bỏ giao kèo bằng hoặc thấp hơn mức đổ đồng chung của cần lao Việt Nam tại thời khắc đó.

Công nhân lực ty Laurelton Diamond ( Hải Dương ). Phúc lợi tăng , "nhảy việc" giảm Trước cổng DN các tỉnh phía nam , nhất là tại các DN dệt may , da giày , từ ngày mồng 5 , mồng 6 Tết đã treo đầy băng-rôn , bảng thông báo tuyển từ vài trăm đến vài nghìn lao động. Tuy nhiên , theo Phó chủ toạ Liên đoàn lao động ( LĐLĐ ) tỉnh Bình Dương Bùi Thanh Nhân cho rằng: "Việc tuyển lao động sau Tết là do các DN mở mang sản xuất , nhận được thêm các đơn đặt hàng mới chứ không phải do DN mất nhân công do tình trạng NLĐ nhảy việc , tìm việc làm mới như những năm quá khứ. Tại Bình Dương , sau Tết , có khoảng 300 DN có nhu cầu tuyển mộ hơn 37 nghìn công nhân , lao động ( CNLĐ ). Đây là cơ hội tìm việc làm tốt cho những lao động bị cắt giảm hợp đồng , mất việc trong năm 2013". Cũng theo ông Bùi Thanh Nhân , các DN dệt may , da giày khu vực phía nam thường khởi động sản xuất muộn hơn các DN phía bắc , do phải đợi NLĐ từ các tỉnh miền bắc , miền trung quay trở lại. Tính đến ngày 8-2 ( tức mồng 9 Tết ) , phần nhiều các DN tỉnh Bình Dương đã làm việc bình thường. Công nhân công ty TNHH Giày Chinluh ( Bến Lức - Long An ) hoàn thiện các sản phẩm trước khi xuất khẩu. Tổng số CNLĐ trở lại làm việc sau Tết chiếm tỷ lệ 85%. Còn khoảng hơn 85 nghìn lao động khuyết tịch sau Tết , trong đó có lý do phối hợp nghỉ phép chiếm 80%. Tại Hà Nội , chủ toạ Công đoàn các Khu Công lao - chế xuất ( KCN-CX ) Hà Nội Đinh Quốc Toản cho biết: Theo thống kê nhanh từ công đoàn cơ sở , tỷ lệ NLĐ trở lại làm việc sau đợt nghỉ Tết tại KCNCX từ 95 đến 100%. Trong số đó , các DN như công ty Canon , Denso , Asti , Muto... là những DN có tỷ lệ NLĐ trở lại làm việc cao nhất. Tỷ lệ này cao hơn các năm trước , chứng tỏ tinh thần của NLĐ đã được nâng lên , rèn luyện được ý nghĩa Công lao , tuân thủ quy định của DN. Cũng theo ông Đinh Quốc Toản , DN nào phúc lợi tăng , tình trạng nhảy việc của CNLĐ sẽ giảm. Các DN có chế độ đãi ngộ tốt , lương , thưởng cao , ổn định là cơ sở giúp tâm lý NLĐ ổn định , an tâm , gắn bó lâu dài cùng công ty. Một số DN giữ chân NLĐ bằng việc ứng trước nửa tháng lương trước Tết. Năm mới nhận tiền lì xì từ 100 nghìn đến 500 nghìn đồng/người...". Còn theo chủ toạ Công đoàn công ty TNHH Canon Việt Nam Phạm Thị Vân Anh , nhân Tết Giáp Ngọ , Công đoàn công ty phối hợp lãnh đạo công ty bố trí 180 xe đưa 3.800 NLĐ hồi trang nghỉ Tết và đón họ lên làm việc dịp đầu năm từ ngày 28-1 ( 28 tháng Chạp ) đến ngày 5-2 ( tức mồng 6 Tết ). Đây là năm thứ tư công ty Canon tổ chức chăm lo việc đi lại cho NLĐ trong dịp tết âm lịch. 18 nghìn CNLĐ gia cư gần , được lãnh đạo và công đoàn tương trợ 200.000 đồng/người... Về phía người lao động , chị Nguyễn Thị Thanh , công nhân công ty Việt Nam Electronic ( KCN Quế Võ , Bắc Ninh ) cho biết , sáu nghìn CNLĐ của công ty đều trở lại làm việc từ mồng 6 Tết theo quy định của DN. Chị san sẻ chân thành: "Nhiều công nhân cùng khu trọ tìm việc làm ở một số công ty nhưng tình hình không khả quan hơn là mấy. Trong tình cảnh DN nào cũng gặp khó khăn thì việc tìm một công việc mới với mức lương lậu cao hơn thật khó lắm thay. Chúng tôi vẫn có việc để làm , có lương là may mắn hơn nhiều người khác bị sa thải , mất việc , nghỉ không lương. Vì thế , chúng tôi bảo nhau chịu khó bám trụ , hy vọng năm mới , đồng lương được cải thiện hơn để chúng tôi an tâm gắn bó lâu dài ở nể ty". Kinh nghiệm của một số DN giữ chân được NLĐ là do đã có những nỗ lực trong việc tìm các đơn đặt hàng , ổn định Chỗ ở cho NLĐ. Một số DN phía bắc thực hiện (Lập trường "ly nông bất ly hương" , tổ chức nhiều nhà máy vệ tinh , cuốn hút lao động tại chỗ , giảm bớt gánh nặng thuê nhà trọ , chi phí đi lại cho NLĐ , tạo công ăn việc làm ổn định cho người dân tại Vùng đất , giảm bớt hệ lụy của quá trình di cư lao động từ nông thôn ra đô thị , hạn chế tối đa tình trạng lao động bỏ việc , phản hồi quê hương tìm việc làm. Tiêu biểu như Tổng công ty cổ phần May 10 , trong những năm qua đầu tư và liên doanh , liên kết tại bảy tỉnh , đô thị trên cả nước để cuốn hút lao động tại chỗ , mức lương lậu bình quân khoảng 5 , 5 triệu đồng/tháng , chia cổ tức 18%. Tại Tổng công ty cổ phần May 10 , ngay trong ngày 4-2 ( ngày mồng 5 Tết ) Toàn bộ cán bộ nhân viên nhà máy đã nhất tề xuất ngũ sản xuất. Công đoàn - chỗ dựa tin cẩn có thể thấy , việc NLĐ quay trở lại DN lao động , sản xuất đầu năm mới tăng cao so với nhiều năm trước , không thể phủ nhận vai trò của các cấp công đoàn trong việc chăm lo , bảo đảm cho tất thảy NLĐ được vui Xuân , đón Tết ngày càng ấm cúng , no đủ hơn. Qua đó , vai trò của công đoàn ngày càng biểu hiện đậm nét , rõ nhất trong hàng loạt các hoạt động trước , trong và sau Tết. Không dừng lại ở việc tăng cường thẩm tra , giám sát việc thực hiện chế độ và chi trả lương lậu , thưởng Tết tại các đơn vị , DN , các cấp công đoàn còn tập kết huy động các nguồn lực chăm lo Tết cho CNLĐ có tình cảnh khó khăn , bị mất việc làm do DN giải tán hoặc có chủ bỏ trốn tại thời điểm trước Tết Nguyên đán; NLĐ bên bị phương chấm dứt hợp đồng lao động , không được thưởng Tết , bằng các hoạt động thăm hỏi , tặng quà , động viên họ chủ động vượt qua khó khăn. Huy động các nguồn lực tầng lớp , DN , các nhà hảo tâm tổ chức hàng nghìn chuyến xe tình nghĩa miễn phí đưa hàng chục nghìn CNLĐ hồi trang ăn Tết... Tại những khu lưu trú , khu nhà trọ có đông NLĐ không có điều kiện hồi trang ăn Tết , công đoàn quận , huyện phối hợp , động viên các chủ nhà trọ tổ chức nấu bánh chưng , bánh tét , nấu bữa cơm tết nhất , đêm giao thừa... tạo khí trời đón Xuân ấm cúng cho NLĐ ở xa Nhà ở. Phối hợp cùng chính quyền Vùng đất tổ chức Hội chợ hàng Việt , gian hàng bình ổn giá tại nơi tập kết đông CNLĐ... Chủ toạ LĐLĐ tỉnh Long An Nguyễn Văn Vân tuy là , do có sự tăng cường giáo dục , tuyên truyền từ các cấp công đoàn , nhận thức của NLĐ đã tăng lên rõ rệt. Qua tuyên truyền , giáo dục , NLĐ nhận thức hơn quyền lợi và bổn phận khi gắn bó với DN. Ông Vân cho biết thêm , tết âm lịch 2014 , các cấp Công đoàn tỉnh Long An phối hợp các cấp , các ngành , chủ DN tổ chức nhiều hoạt động chăm lo Chỗ ở vật chất , tinh thần cho NLĐ , tạo sự phấn chấn cho NLĐ vui Xuân đón Tết. Tết Giáp Ngọ vừa qua , toàn tỉnh Long An có khoảng năm nghìn NLĐ không có điều kiện hồi trang ăn Tết , ngoài việc trao trực tiếp đến tay NLĐ hơn 1.400 suất quà , Công đoàn tỉnh Long An phối hợp tỉnh đoàn tổ chức đêm tất niên cho 500 CNLĐ khó khăn , không có điều kiện hồi trang ăn Tết. Tổ chức ba đêm văn nghệ "Nghĩa tình công nhân" cuốn hút hàng nghìn NLĐ dự khán , cổ vũ... Nhờ đó , tỷ lệ NLĐ quay trở lại làm việc tại tỉnh Long An cao , khoảng 85 đến 90%. Tiêu biểu như công ty TNHH Giày Chinluh ( KCN Thuận Đạo , Bến Lức ) có 23 nghìn NLĐ , đến nay đã có 21 , 5 nghìn NLĐ đã trở lại , sẵn sàng lao động , sản xuất đầu năm mới. ĐẶNG THANH HÀ .

Tết ra , cách gì giữ chân người lao động?

Công nhân lực ty Laurelton Diamond ( Hải Dương ). Phúc lợi tăng , "nhảy việc" giảm Trước cổng DN các tỉnh phía nam , nhất là tại các DN dệt may , da giày , từ ngày mồng 5 , mồng 6 Tết đã treo đầy băng-rôn , bảng thông báo tuyển từ vài trăm đến vài nghìn lao động. Tuy nhiên , theo Phó chủ toạ Liên đoàn lao động ( LĐLĐ ) tỉnh Bình Dương Bùi Thanh Nhân cho rằng: "Việc tuyển lao động sau Tết là do các DN mở mang sản xuất , nhận được thêm các đơn đặt hàng mới chứ không phải do DN mất nhân công do tình trạng NLĐ nhảy việc , tìm việc làm mới như những năm quá khứ. Tại Bình Dương , sau Tết , có khoảng 300 DN có nhu cầu tuyển mộ hơn 37 nghìn công nhân , lao động ( CNLĐ ). Đây là cơ hội tìm việc làm tốt cho những lao động bị cắt giảm hợp đồng , mất việc trong năm 2013". Cũng theo ông Bùi Thanh Nhân , các DN dệt may , da giày khu vực phía nam thường khởi động sản xuất muộn hơn các DN phía bắc , do phải đợi NLĐ từ các tỉnh miền bắc , miền trung quay trở lại. Tính đến ngày 8-2 ( tức mồng 9 Tết ) , phần nhiều các DN tỉnh Bình Dương đã làm việc bình thường. Công nhân công ty TNHH Giày Chinluh ( Bến Lức - Long An ) hoàn thiện các sản phẩm trước khi xuất khẩu. Tổng số CNLĐ trở lại làm việc sau Tết chiếm tỷ lệ 85%. Còn khoảng hơn 85 nghìn lao động khuyết tịch sau Tết , trong đó có lý do phối hợp nghỉ phép chiếm 80%. Tại Hà Nội , chủ toạ Công đoàn các Khu Công lao - chế xuất ( KCN-CX ) Hà Nội Đinh Quốc Toản cho biết: Theo thống kê nhanh từ công đoàn cơ sở , tỷ lệ NLĐ trở lại làm việc sau đợt nghỉ Tết tại KCNCX từ 95 đến 100%. Trong số đó , các DN như công ty Canon , Denso , Asti , Muto... là những DN có tỷ lệ NLĐ trở lại làm việc cao nhất. Tỷ lệ này cao hơn các năm trước , chứng tỏ tinh thần của NLĐ đã được nâng lên , rèn luyện được ý nghĩa Công lao , tuân thủ quy định của DN. Cũng theo ông Đinh Quốc Toản , DN nào phúc lợi tăng , tình trạng nhảy việc của CNLĐ sẽ giảm. Các DN có chế độ đãi ngộ tốt , lương , thưởng cao , ổn định là cơ sở giúp tâm lý NLĐ ổn định , an tâm , gắn bó lâu dài cùng công ty. Một số DN giữ chân NLĐ bằng việc ứng trước nửa tháng lương trước Tết. Năm mới nhận tiền lì xì từ 100 nghìn đến 500 nghìn đồng/người...". Còn theo chủ toạ Công đoàn công ty TNHH Canon Việt Nam Phạm Thị Vân Anh , nhân Tết Giáp Ngọ , Công đoàn công ty phối hợp lãnh đạo công ty bố trí 180 xe đưa 3.800 NLĐ hồi trang nghỉ Tết và đón họ lên làm việc dịp đầu năm từ ngày 28-1 ( 28 tháng Chạp ) đến ngày 5-2 ( tức mồng 6 Tết ). Đây là năm thứ tư công ty Canon tổ chức chăm lo việc đi lại cho NLĐ trong dịp tết âm lịch. 18 nghìn CNLĐ gia cư gần , được lãnh đạo và công đoàn tương trợ 200.000 đồng/người... Về phía người lao động , chị Nguyễn Thị Thanh , công nhân công ty Việt Nam Electronic ( KCN Quế Võ , Bắc Ninh ) cho biết , sáu nghìn CNLĐ của công ty đều trở lại làm việc từ mồng 6 Tết theo quy định của DN. Chị san sẻ chân thành: "Nhiều công nhân cùng khu trọ tìm việc làm ở một số công ty nhưng tình hình không khả quan hơn là mấy. Trong tình cảnh DN nào cũng gặp khó khăn thì việc tìm một công việc mới với mức lương lậu cao hơn thật khó lắm thay. Chúng tôi vẫn có việc để làm , có lương là may mắn hơn nhiều người khác bị sa thải , mất việc , nghỉ không lương. Vì thế , chúng tôi bảo nhau chịu khó bám trụ , hy vọng năm mới , đồng lương được cải thiện hơn để chúng tôi an tâm gắn bó lâu dài ở nể ty". Kinh nghiệm của một số DN giữ chân được NLĐ là do đã có những nỗ lực trong việc tìm các đơn đặt hàng , ổn định Chỗ ở cho NLĐ. Một số DN phía bắc thực hiện (Lập trường "ly nông bất ly hương" , tổ chức nhiều nhà máy vệ tinh , cuốn hút lao động tại chỗ , giảm bớt gánh nặng thuê nhà trọ , chi phí đi lại cho NLĐ , tạo công ăn việc làm ổn định cho người dân tại Vùng đất , giảm bớt hệ lụy của quá trình di cư lao động từ nông thôn ra đô thị , hạn chế tối đa tình trạng lao động bỏ việc , phản hồi quê hương tìm việc làm. Tiêu biểu như Tổng công ty cổ phần May 10 , trong những năm qua đầu tư và liên doanh , liên kết tại bảy tỉnh , đô thị trên cả nước để cuốn hút lao động tại chỗ , mức lương lậu bình quân khoảng 5 , 5 triệu đồng/tháng , chia cổ tức 18%. Tại Tổng công ty cổ phần May 10 , ngay trong ngày 4-2 ( ngày mồng 5 Tết ) Toàn bộ cán bộ nhân viên nhà máy đã nhất tề xuất ngũ sản xuất. Công đoàn - chỗ dựa tin cẩn có thể thấy , việc NLĐ quay trở lại DN lao động , sản xuất đầu năm mới tăng cao so với nhiều năm trước , không thể phủ nhận vai trò của các cấp công đoàn trong việc chăm lo , bảo đảm cho tất thảy NLĐ được vui Xuân , đón Tết ngày càng ấm cúng , no đủ hơn. Qua đó , vai trò của công đoàn ngày càng biểu hiện đậm nét , rõ nhất trong hàng loạt các hoạt động trước , trong và sau Tết. Không dừng lại ở việc tăng cường thẩm tra , giám sát việc thực hiện chế độ và chi trả lương lậu , thưởng Tết tại các đơn vị , DN , các cấp công đoàn còn tập kết huy động các nguồn lực chăm lo Tết cho CNLĐ có tình cảnh khó khăn , bị mất việc làm do DN giải tán hoặc có chủ bỏ trốn tại thời điểm trước Tết Nguyên đán; NLĐ bên bị phương chấm dứt hợp đồng lao động , không được thưởng Tết , bằng các hoạt động thăm hỏi , tặng quà , động viên họ chủ động vượt qua khó khăn. Huy động các nguồn lực tầng lớp , DN , các nhà hảo tâm tổ chức hàng nghìn chuyến xe tình nghĩa miễn phí đưa hàng chục nghìn CNLĐ hồi trang ăn Tết... Tại những khu lưu trú , khu nhà trọ có đông NLĐ không có điều kiện hồi trang ăn Tết , công đoàn quận , huyện phối hợp , động viên các chủ nhà trọ tổ chức nấu bánh chưng , bánh tét , nấu bữa cơm tết nhất , đêm giao thừa... tạo khí trời đón Xuân ấm cúng cho NLĐ ở xa Nhà ở. Phối hợp cùng chính quyền Vùng đất tổ chức Hội chợ hàng Việt , gian hàng bình ổn giá tại nơi tập kết đông CNLĐ... Chủ toạ LĐLĐ tỉnh Long An Nguyễn Văn Vân tuy là , do có sự tăng cường giáo dục , tuyên truyền từ các cấp công đoàn , nhận thức của NLĐ đã tăng lên rõ rệt. Qua tuyên truyền , giáo dục , NLĐ nhận thức hơn quyền lợi và bổn phận khi gắn bó với DN. Ông Vân cho biết thêm , tết âm lịch 2014 , các cấp Công đoàn tỉnh Long An phối hợp các cấp , các ngành , chủ DN tổ chức nhiều hoạt động chăm lo Chỗ ở vật chất , tinh thần cho NLĐ , tạo sự phấn chấn cho NLĐ vui Xuân đón Tết. Tết Giáp Ngọ vừa qua , toàn tỉnh Long An có khoảng năm nghìn NLĐ không có điều kiện hồi trang ăn Tết , ngoài việc trao trực tiếp đến tay NLĐ hơn 1.400 suất quà , Công đoàn tỉnh Long An phối hợp tỉnh đoàn tổ chức đêm tất niên cho 500 CNLĐ khó khăn , không có điều kiện hồi trang ăn Tết. Tổ chức ba đêm văn nghệ "Nghĩa tình công nhân" cuốn hút hàng nghìn NLĐ dự khán , cổ vũ... Nhờ đó , tỷ lệ NLĐ quay trở lại làm việc tại tỉnh Long An cao , khoảng 85 đến 90%. Tiêu biểu như công ty TNHH Giày Chinluh ( KCN Thuận Đạo , Bến Lức ) có 23 nghìn NLĐ , đến nay đã có 21 , 5 nghìn NLĐ đã trở lại , sẵn sàng lao động , sản xuất đầu năm mới. ĐẶNG THANH HÀ .

Biến chuyển về nhận thức ở cấp địa phương về tầm quan yếu của Công việc tuyên truyền PBPLTheo Bộ LĐ -TB &XH , mặc dù kinh phí khai triển khả năng hạn hẹp và thời kì không nhiều , song các Tiểu dự án ( cộng tất cả lại có 5 tiểu dự án ) đã có sự kết hợp , chủ động trong việc thực hành và đã đạt được những kết quả ban sơ. Cụ thể , các các cơ quan , tổ chức chịu bổn phận điều hành từng Tiểu dự án đã chủ động , kết hợp với các cơ quan liên quan tiến hành xây dựng kế hoạch , nội dung và dự toán chi tiết để thực hành cho năm 2009 và cả giai đoạn. Đặc biệt , đã chú ý kết hợp , lồng ghép nghề nghiệp với Công việc chuyên trị và chú trọng nhu cầu của đối tượng.Theo đó , nhận thức của các cơ quan , tổ chức , người lao dong và người sử dụng lao động về tầm quan yếu của Công việc tuyên truyền phổ quát luật pháp và sự cần thiết của dự án đã có bước chuyển , nhất là cấp địa phương. Cuộc khảo sát Công việc tuyên truyền phổ quát giáo dục luật pháp do Tiểu dự án 1 thực hành tại 80 doanh nghiệp thuộc mọi loại hình tại 16 tỉnh , thành phố trên 3 miền đất nước đã cho thấy khoảng 80% chức vụ đã khai triển Công việc này.Tuy nhiên , Bộ LĐ - TB &XH cho biết việc tuyên truyền chưa được thực hành tốt và có sự chênh lệch giữa các loại hình doanh nghiệp , trong đó doanh nghiệp dân doanh , đặc biệt là hiệp tác xã là những chức vụ thực hành kém nhất. Trong khi đó , độ bao phủ của hoạt động tuyên truyền phổ quát luật pháp cho người lao dong và người sử dụng lao động có những giữ lại về quy mô và số lượng , chủ yếu tập trung ở cấp trung ương và cấp tỉnh , thành phố , chưa lan tỏa đến cấp doanh nghiệp. Hoạt động của các tiều dự án cũng không đồng đều. Cụ thể , tiểu dự án 2 vẫn chưa khai triển việc soạn thảo và ban hành chính sách xứng đáng được đề nghị hoặc đề xuất doanh nghiệp đầu tư cho Công việc tuyên truyền phổ quát luật pháp tại doanh nghiệp. Tiểu dự án 4 mới phát động ở cấp trung ương và còn lúng túng.Hơn thế , nội dung tuyên truyền ở tất cả các loại hình doanh nghiệp còn có sự chênh lệch và chỉ mới tập trung vào một số nội dung có phẩm chất cho người sử dụng lao động như giao kèo lao động ( trên 82% doanh nghiệp thực hành việc này ) , không có các mối nguy hiểm hoặc rủi ro vệ sinh đẻ lao động ( 80 , 7% ) , tiền lương ( 80% ) mà ít quan hoài đến các vấn đề liên quan đến lợi quyền thiết thân của người lao động như thỏa mê lao dong tập thể , BHXH , BHTN , thì giờ làm việc , ngơi nghỉ , đình công và giải quyết tranh chấp lao dong . Tập trung khai triển các giải pháp để nâng cao hiệu quả của Đề ánTheo Thứ trưởng Bộ lao động – Thương binh và từng lớp , Trưởng ban Điều hành dự án Phạm Minh Huân , nhiệm vụ đặt ra cho dự án trong năm 2010 là rất lớn bởi đây là năm thứ 2 thực hành dự án để làm cơ sở sơ kết , đánh giá giữa kỳ tạo tiền đề cho việc hoàn thành mục đích đặt ra vào năm 2012 và cũng là năm quốc hội sẽ phê chuẩn 2 dự án luật liên quan trực tiếp tới quyền và nghĩa vụ người lao dong và người sử dụng lao dong , đó là Bộ luật lao động hiệu chính và Luật Công đoàn sửa đổi.Do đó , Thứ trưởng đề nghị các thành viên Ban điều hành cần tăng cường hơn nữa tính chủ động trong việc đốc thúc , giám sát và kết hợp các hoạt động của các tiểu dự án , đặc biệt là ở cấp địa phương.Đồng thời , Bộ Tư pháp quan hoài chỉ dẫn Công việc đồ mưu hoạch và khai triển thực hành tuyên truyền phổ quát luật pháp , cung cấp kịp thời các đề cương tuyên truyền và đào tạo đội ngũ làm thuê tác này. Theo đó , khai triển ngay từ tháng đầu , quý đầu năm 2010 trên diện rộng và xuống sâu tới các doanh nghiệp theo nguyên tắc nội dung tuyên truyền phổ quát luật pháp phải sát sườn với người lao động và ngưởi sử dụng lao động , hình thức đa dạng và ăn nhập với từng đối tượng và các hoạt động phải được tổng hợp , phân tích , thông tin làm cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành mục đích của Đề án.Mặt khác , Bộ Tài chính cần gay go xây dựng chính sách xứng đáng được đề nghị hoặc đề xuất doanh nghiệp tự tổ chức tuyên truyền phổ quát luật pháp và sớm ban hành Thông tư hiệu chính , Sửa sang Thông tư 63/2005/TT-BTC nhằm tạo hoàn cảnh đảm bảo kinh phí tốt hơn cho hoạt động tuyên truyền , phổ quát , giáo dục luật pháp nhìn chung , cho hoạt động của dự án nói riêng./.

Nội dung tuyên truyền phổ quát pháp luật phải sát sườn với người lao động và ngưởi sử dụng lao động

Biến chuyển về nhận thức ở cấp địa phương về tầm quan yếu của Công việc tuyên truyền PBPLTheo Bộ LĐ -TB &XH , mặc dù kinh phí khai triển khả năng hạn hẹp và thời kì không nhiều , song các Tiểu dự án ( cộng tất cả lại có 5 tiểu dự án ) đã có sự kết hợp , chủ động trong việc thực hành và đã đạt được những kết quả ban sơ. Cụ thể , các các cơ quan , tổ chức chịu bổn phận điều hành từng Tiểu dự án đã chủ động , kết hợp với các cơ quan liên quan tiến hành xây dựng kế hoạch , nội dung và dự toán chi tiết để thực hành cho năm 2009 và cả giai đoạn. Đặc biệt , đã chú ý kết hợp , lồng ghép nghề nghiệp với Công việc chuyên trị và chú trọng nhu cầu của đối tượng.Theo đó , nhận thức của các cơ quan , tổ chức , người lao dong và người sử dụng lao động về tầm quan yếu của Công việc tuyên truyền phổ quát luật pháp và sự cần thiết của dự án đã có bước chuyển , nhất là cấp địa phương. Cuộc khảo sát Công việc tuyên truyền phổ quát giáo dục luật pháp do Tiểu dự án 1 thực hành tại 80 doanh nghiệp thuộc mọi loại hình tại 16 tỉnh , thành phố trên 3 miền đất nước đã cho thấy khoảng 80% chức vụ đã khai triển Công việc này.Tuy nhiên , Bộ LĐ - TB &XH cho biết việc tuyên truyền chưa được thực hành tốt và có sự chênh lệch giữa các loại hình doanh nghiệp , trong đó doanh nghiệp dân doanh , đặc biệt là hiệp tác xã là những chức vụ thực hành kém nhất. Trong khi đó , độ bao phủ của hoạt động tuyên truyền phổ quát luật pháp cho người lao dong và người sử dụng lao động có những giữ lại về quy mô và số lượng , chủ yếu tập trung ở cấp trung ương và cấp tỉnh , thành phố , chưa lan tỏa đến cấp doanh nghiệp. Hoạt động của các tiều dự án cũng không đồng đều. Cụ thể , tiểu dự án 2 vẫn chưa khai triển việc soạn thảo và ban hành chính sách xứng đáng được đề nghị hoặc đề xuất doanh nghiệp đầu tư cho Công việc tuyên truyền phổ quát luật pháp tại doanh nghiệp. Tiểu dự án 4 mới phát động ở cấp trung ương và còn lúng túng.Hơn thế , nội dung tuyên truyền ở tất cả các loại hình doanh nghiệp còn có sự chênh lệch và chỉ mới tập trung vào một số nội dung có phẩm chất cho người sử dụng lao động như giao kèo lao động ( trên 82% doanh nghiệp thực hành việc này ) , không có các mối nguy hiểm hoặc rủi ro vệ sinh đẻ lao động ( 80 , 7% ) , tiền lương ( 80% ) mà ít quan hoài đến các vấn đề liên quan đến lợi quyền thiết thân của người lao động như thỏa mê lao dong tập thể , BHXH , BHTN , thì giờ làm việc , ngơi nghỉ , đình công và giải quyết tranh chấp lao dong . Tập trung khai triển các giải pháp để nâng cao hiệu quả của Đề ánTheo Thứ trưởng Bộ lao động – Thương binh và từng lớp , Trưởng ban Điều hành dự án Phạm Minh Huân , nhiệm vụ đặt ra cho dự án trong năm 2010 là rất lớn bởi đây là năm thứ 2 thực hành dự án để làm cơ sở sơ kết , đánh giá giữa kỳ tạo tiền đề cho việc hoàn thành mục đích đặt ra vào năm 2012 và cũng là năm quốc hội sẽ phê chuẩn 2 dự án luật liên quan trực tiếp tới quyền và nghĩa vụ người lao dong và người sử dụng lao dong , đó là Bộ luật lao động hiệu chính và Luật Công đoàn sửa đổi.Do đó , Thứ trưởng đề nghị các thành viên Ban điều hành cần tăng cường hơn nữa tính chủ động trong việc đốc thúc , giám sát và kết hợp các hoạt động của các tiểu dự án , đặc biệt là ở cấp địa phương.Đồng thời , Bộ Tư pháp quan hoài chỉ dẫn Công việc đồ mưu hoạch và khai triển thực hành tuyên truyền phổ quát luật pháp , cung cấp kịp thời các đề cương tuyên truyền và đào tạo đội ngũ làm thuê tác này. Theo đó , khai triển ngay từ tháng đầu , quý đầu năm 2010 trên diện rộng và xuống sâu tới các doanh nghiệp theo nguyên tắc nội dung tuyên truyền phổ quát luật pháp phải sát sườn với người lao động và ngưởi sử dụng lao động , hình thức đa dạng và ăn nhập với từng đối tượng và các hoạt động phải được tổng hợp , phân tích , thông tin làm cơ sở để đánh giá mức độ hoàn thành mục đích của Đề án.Mặt khác , Bộ Tài chính cần gay go xây dựng chính sách xứng đáng được đề nghị hoặc đề xuất doanh nghiệp tự tổ chức tuyên truyền phổ quát luật pháp và sớm ban hành Thông tư hiệu chính , Sửa sang Thông tư 63/2005/TT-BTC nhằm tạo hoàn cảnh đảm bảo kinh phí tốt hơn cho hoạt động tuyên truyền , phổ quát , giáo dục luật pháp nhìn chung , cho hoạt động của dự án nói riêng./.

Popular Posts