Xuất cảng lao động , tham bát bỏ mâm
Nhưng vì sao , hoạt động xuất biên lao động ( XKLĐ ) vẫn chưa tạo niềm tin cho người lao động trong nước , còn lao dong Việt Nam tại ngoại quốc vẫn chưa có “thương hiệu”?Người mong việc , doanh nghiệp nhăm nhăm kiếm chácChỉ riêng ba năm ( từ năm 2006 đến hết năm 2008 ) , đã có khoảng 250.000 lao động Việt Nam đi làm việc ở ngoại quốc ( đổ đồng khoảng 83.000 người/năm ). Làng nhàng một doanh nghiệp ( DN ) đưa được 600 - 1.000 lao dong đi làm việc ở ngoại quốc , thậm chí một số DN còn đưa được 2.000 người. Phong trào XKLĐ đến từng ngõ , gõ cửa từng nhà. Địa ngục lao dong ( NLĐ ) thì được “xuất ngoại” , ôm mộng nhận lương ngoại tệ , còn DN “rủng rỉnh” các loại phí…Hiện tại , hoạt động XKLĐ đang “phủ sóng” mạnh mẽ. Đến nay , trên cả nước , cỗ lao động – Thương binh và từng lớp ( LĐ-TB&XH ) đã cấp phép cho 171 DN hoạt động trong khu vực XKLĐ. Theo quy định , mỗi DN lại được phép thành lập ba chi nhánh , dưới các chi nhánh lại là các trọng tâm đào tạo nên số lượng chức vụ làm XKLĐ thực tế phải tới hơn 500 đơn vị... Không khó gì giảng giải hiện tượng cách đây tròn một năm , 32 lao động nữ quê ở Thái Nguyên phải sống cảnh vạ vật ở Hà Nội , bám trụ ở các cơ quan công năng để đòi “công bằng” cho mình. Họ được một công ti , trực thuộc tập đoàn lớn ( có giấy phép XKLĐ do Bộ LĐ-TB&XH cấp ) đến địa phương thông tin tuyển sang Nga làm mướn nhân may công nghiệp với phí ngót 41 triệu đồng. Đặt chân đến nước bạn , cạc lao dong nữ tá hỏa khi biết mình phải làm việc tại một xưởng may chui. Họ phải dùng nước không vệ sinh , cứ sau 12 tiếng làm việc mới được ăn , thậm chí khi không có việc thì bị bỏ đói , khi có công an đến rà , chủ xưởng bắt công nhân nữ phải trốn lên nóc nhà cao tầng… Sau 13 tháng “làm việc” xứ người , họ không nhận được một đồng lương , nhưng gặp dịp tốt là chung cuộc họ được về nước… Việc này tái diễn gần đây với 36 lao dong nữ cùng quê , rất may , những lá đơn kêu cứu của họ đã đến tay Đoàn đại biểu quốc hội ( QH ) tỉnh Thái Nguyên.Thiếu thông tin , thừa cò mồi liệt kê của Ủy ban các vấn đề từng lớp của QH cho thấy , trong những năm qua đã có 137 vụ liên can đến lường đảo XKLĐ được điều tra , xử lý; Khởi tố 186 bị can; xử lí hành chính 118 vụ với 133 đối tượng liên can. Cũng sau ba năm thực hành Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở ngoại quốc , có gần 2.000 đơn thư khiếu nại của người lao động gửi lên Bộ LĐ-TB&XH. Bộ cũng đã tiếp hành thanh tra , rà 191 lượt DN , xử lí vi phạm hành chính đối với 119 lượt DN. Căn nguyên dẫn đến các vụ lường đảo XKLĐ càng ngày càng Thêm lên được các đại biểu QH nhận định là do lợi nhuận trong khu vực này mang lại. Ngoài nhiệm vụ góp phần tạo công ăn việc làm cho NLĐ , việc DN XKLĐ nào cũng đua nhau đưa thật có lao động Việt Nam “xuất ngoại” là điều rành mạch. Số lượng NLĐ đồng nghĩa với những khoản lợi nhuận mà DN thu được. Ông Đỗ Mạnh Hùng , Phó đoàn trưởng đại biểu QH tỉnh Thái Nguyên tiết lộ: “Đã nắm chuẩn xác một DN thu của lao dong cả 100 triệu đồng nhưng chỉ ghi trên hóa đơn 19 , 5 triệu”. Thực tế , để đi làm việc ở ngoại quốc , tùy theo từng thị trường và nghề nghiệp trong hợp đồng mà NLĐ phải nộp cho các DN một mức phí khác nhau. Nhưng nói chung , họ phải “è cổ” nộp rất nhiều khoản , từ làm visa , khám sức khỏe , hộ chiếu , phí quản lý , phí môi giới , đào tạo định hướng , học tiếng nước ngoài , học nghề đến nhiều khoản ngoài danh mục như tiền ăn , ở , tiền quần áo , đồ dùng… Đặc biệt , những khoản thu này thường không công khai , sáng tỏ. Ngay cả trang web của cơ quan quản lý quốc gia về XKLĐ là Cục Quản lý lao dong ngoài nước cũng không tìm ra mục hướng dẫn NLĐ phải nộp các khoản phí nào…Trả lời chất vấn Đoàn giám sát của QH , bộ trưởng LĐ-TB&XH cho rằng , sở dĩ có hiện tượng “cò mồi” , lường đảo NLĐ là do NLĐ thiếu thông tin không mấy thuyết phục. Những lao động “ba không”Theo bẩm nghiên cứu lao động thiên cư từ Việt Nam đến các nước của trọng tâm nghiên cứu Phát triển quốc tế , khoảng 97% người đi XKLĐ không đủ tiêu chuẩn kinh tế để trang trải phí cho chuyến đi của mình. Có tới 62% trường hợp người đi XKLĐ phải cầm cố nhà , đất; 2% trường hợp phải cầm cố đất nông nghiệp , không ít người đã phải chịu mức lãi suất rất cao ( 1-2%/tháng )… hồ hết NLĐ vay tiền đi XKLĐ với lạc quan có chút vốn liếng để cải thiện cuộc sống không biết họ đang “đánh bạc”. Bởi lẽ , nhiều DN nhắm mắt xuôi tay làm liều , cứ thu tiền tài NLĐ mà không cần quan hoài NLĐ có đáp ứng các yêu cầu hay không và có phải về nước trước thời hạn hay không. Phải để ý một thực tế , LĐ Việt Nam đi làm việc ở ngoại quốc cốt là dân cày. Họ là những LĐ “ba không”: không nghề; không ngoại ngữ; không hay biết , tác phong công nghiệp. Ông Bùi Sỹ Lợi , Phó Chủ nhiệm Ủy ban các vấn đề từng lớp của QH cho rằng: “Việc không chuẩn bị kỹ về chất lượng khiến NLĐ Việt Nam sang làm việc tại ngoại quốc xảy ra hàng loạt vấn đề Rắc rối. Tỉ dụ , nước sở tại cấm ăn thịt chó thì giết thịt chó; cấm nấu rượu thì nấu rượu , cấm đánh bạc thì đánh bạc… Chính việc thiếu công khai , sáng tỏ các khoản phí ngoài luồng đã đè nặng lên vai NLĐ. Họ đã buộc phải vi phạm pháp luật: Bỏ trốn ra ngoài làm , tìm mọi cách kiếm tiền để hoàn lại phần đã bỏ ra”.Đau buồn nhất là những LĐ Việt Nam bị chết ở xứ người. Theo liệt kê của Cục Quản lý lao động ngoài nước , có khoảng 20.000 LĐ Việt Nam đang làm việc tại Malaysia với thu nhập đổ đồng tháng 2 , 5-4 triệu đồng. Tuy nhiên , từ năm 2004 đến nay , đã có khoảng 400 LĐ chết khi làm việc tại đây. Làng nhàng cứ 6 ngày lại có đơn lao dong phụ vong. Riêng năm 2007 , đã có 107 lao dong tử vong. Hệ lụy đã rõ ràngViệc tạo nguồn LĐ xuất biên vẫn rất có nhiều trở ngại hoặc thiếu thốn. Căn nguyên là NLĐ trong nước mất niềm tin. Hưng thịnh NLĐ được hỏi đã tỏ ra hoang mang với tâm lý “tiền mất , tật mang” vì mắc phải bẫy lường đảo XKLĐ. Họ cũng cảm thấy bất an khi thấy nhiều LĐ phải về nước trước thời hạn với khoản nợ hàng chục triệu , nhiều LĐ phải bỏ thây ở xứ người rồi những chuyện bãi công , đánh nhau , bỏ trốn… Thêm vào đó , trước đây các DN quá dễ dãi trong việc tạo nguồn LĐ nên chỉ tìm được những thị trường thu nhập thấp , giờ đây không hấp dẫn NLĐ. Ông Nguyễn Xuân Vui , Giám đốc trọng tâm XKLĐ Airsenco cho biết , nếu như trước đây ( năm 2005 – 2007 ) tại thị trường Malaysia , mỗi năm có khoảng 10.000 NLĐ sang làm việc thì nay giảm xuống còn 2.500 người , đổ đồng mỗi DN chỉ được khoảng 32 lao động .Ông Bùi Sỹ Lợi lo lắng: “Việt Nam là một nước có nguồn lao động rất nhiều , NLĐ được đánh giá là siêng năng , chuyên cần , tinh thần nhanh nhẹn và tháo vát hấp thụ công nghệ mới nhưng vì sao LĐ Việt Nam sang ngoại quốc làm việc vẫn chưa có “thương hiệu”. Điều này khuyết điểm của các DN không chú trọng đến chất lượng LĐ. Trong khi 80% lao động Philippines biết tiếng Anh , tỷ lệ học đại học chiếm 70-80% thì lao dong của ta cốt tốt nghiệp phổ quát , tiếng nước ngoài rất kém”. Hệ quả này có tác động đến một điều gì đó trực tiếp đến vị trí Việt Nam trên thị trường LĐ quốc tế. Thị phần lao động của Việt Nam đang dần bị thu hẹp trên bản đồ XKLĐ thế giới. Trong số 40 quốc gia và vùng bờ cõi , hiện tại hoạt động cung ứng LĐ của Việt Nam chỉ tập trung ở 9 thị trường gồm: Hàn Quốc , Nhật Bản , Đài Loan ( Trung Quốc ) , Macao ( Trung Quốc ) , Malaysia , UAE , Saudi Arabia , Bahrain , Libya. Hàng loạt thị trường tiềm năng được đánh giá là thị trường “nghìn đô” về thu nhập cho NLĐ như Australia , một số nước Tây Âu , Đông Âu và Mỹ… sau một thời kì được các DN Việt Nam tiếp cận đến nay đều đã đóng cửa. Theo Cục Quản lý lao dong ngoài nước , trong sáu tháng đầu năm cả nước chỉ có 37.068 người đi XKLĐ , đạt 43% kế hoạch năm. Dù cho năm nay , Bộ LĐ-TB&XH đã giảm định mức XKLĐ xuống còn 85.000 người so với dự kiến 100.000 người nhưng nhiều khả năng vẫn không đạt được. Dẫu chậm còn hơn không , sau hoạt động giám sát của QH , rất mong hoạt động XKLĐ sẽ được chỉnh đốn và có hướng đi mới.
0 comments:
Post a Comment